TẠI SAO BÁC HỒ LẠI TIN TƯỞNG
VÀ ĐI THEO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN?
1. Hành trình tìm đường cứu nước và cuộc gặp gỡ lịch sử với Luận cương của V.I. Lênin
Sau thất bại của của các phong trào: Cần Vương, Đông Du, Duy Tân, con đường giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX rơi vào bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”. Những con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản hay dân chủ tư sản đều không đem lại kết quả. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc - chàng thanh niên yêu nước mới ngoài đôi mươi đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911).
Người đã bôn ba qua nhiều châu lục: châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Người đã làm đủ nghề để mưu sinh: Từ phụ bếp, thợ ảnh, thợ cào tuyết, đến thợ đốt lò, bồi bàn... Cuộc sống lao động cực nhọc đã giúp Người thấm thía nỗi thống khổ của người lao động bị áp bức, bóc lột. Trong suốt gần 10 năm bôn ba (1911-1920), Nguyễn Ái Quốc vừa lao động kiếm sống, vừa kiên trì quan sát, học hỏi, khảo nghiệm thực tế xã hội ở các nước, tìm hiểu các phong trào chính trị, tham gia hoạt động công nhân, đặc biệt là sống trong lòng các quốc gia tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ.
Người đã từng tiếp cận tư tưởng tư sản, với khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, hay các học thuyết dân chủ tư sản, song đã nhận ra rằng: ở chính quốc, công nhân vẫn nghèo khổ; ở thuộc địa, nhân dân vẫn bị áp bức. Các “con đường cứu nước” trước đó đều không thể giải phóng dân tộc Việt Nam.
Bước ngoặt lịch sử đến với Người vào năm 1920. Khi Người đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc như tìm thấy ánh sáng soi đường của “mặt trời chân lý”. Người kể lại: “Lúc đầu, đọc Luận cương của Lênin, tôi rất xúc động. Ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như nói trước quần chúng đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!’”.
Người đã khóc vì sung sướng, vì lần đầu tiên tìm thấy lời giải đáp trọn vẹn cho khát vọng cháy bỏng: Giải phóng dân tộc bị áp bức phải gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động; độc lập dân tộc phải đi đôi với chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tin tưởng, dứt khoát lựa chọn con đường cách mạng vô sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), và nguyện hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp theo con đường của Lênin, con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga.
2. Thực tiễn chứng minh sự lựa chọn đúng đắn
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 95 năm qua đã chứng minh: sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn toàn đúng đắn, là bước ngoặt quyết định cho vận mệnh dân tộc.
Trước hết, nhờ kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), đặt nền móng cho phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam. Đảng ra đời đã chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam đi đúng quỹ đạo: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chính đường lối ấy đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, dưới ngọn cờ Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã vượt qua muôn vàn kho khăn, thử thách, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu (1954), đập tan ách thực dân cũ. Đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc ách thực dân mới.
Không chỉ giành độc lập, con đường cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lựa chọn còn mở ra triển vọng phát triển bền vững cho dân tộc. Sau khi thống nhất, đất nước ta tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc Đổi mới (1986) theo tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ đó, Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đạt nhiều thành tựu to lớn: chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, vị thế đất nước không ngừng được khẳng định trên trường quốc tế.
Thực tiễn ấy khẳng định: chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới chỉ ra con đường giải phóng đúng đắn cho các dân tộc bị áp bức; chỉ có lựa chọn ấy mới giúp dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ lầm than trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh.
Như vậy, việc Nguyễn Ái Quốc tìm đến, tin tưởng và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là sự lựa chọn cá nhân, mà là sự lựa chọn của lịch sử, của dân tộc. Đó là lựa chọn vĩ đại, đúng đắn, làm nên những thắng lợi huy hoàng của cách mạng Việt Nam suốt hơn 95 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường phát triển của đất nước trong tương lai.
3. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải làm gì để xứng đáng với Bác Hồ kính yêu
Thế hệ trẻ hôm nay, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, cần nhận thức sâu sắc rằng: công ơn trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho dân tộc và Quân đội ta là vô cùng to lớn, không gì có thể sánh bằng. Để xứng đáng với Người, thế hệ trẻ không chỉ dừng lại ở lòng biết ơn, mà quan trọng hơn phải biến tình cảm ấy thành hành động cụ thể trong học tập, rèn luyện và công tác hằng ngày; thực hiện tốt cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.
Trước hết, cần kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, không dao động trước khó khăn, thách thức. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chính trị, quân sự, khoa học - công nghệ, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ hai, phải tích cực học tập, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh, nêu cao tinh thần kỷ luật, chấp hành nghiêm pháp luật nhà nước, điều lệnh, điều lệ của Quân đội. Thực hiện tốt lời dạy của Bác: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, gắn bó máu thịt với nhân dân, tích cực tham gia lao động, giúp dân khắc phục thiên tai, phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Thực hiện tốt những điều ấy chính là cách thiết thực nhất để thế hệ trẻ, nhất là cán bộ, chiến sĩ Quân đội hôm nay, xứng đáng với niềm tin yêu, sự hy sinh, công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu; là lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XII./.